1. Di chúc là gì?
Theo quy định tại Điều 624 Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015) thì di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
2. Ai có quyền lập di chúc?
Không phải mọi bất kỳ ai cũng có quyền lập di chúc để lại tài sản của mình cho người khác. Tại Điều 647 BLDS 2015 quy định những người sau đây thì có quyền lập di chúc:
- Người thành niên có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình nhưng phải minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có quyền được lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc
3. Ai có quyền được nhận di sản thừa kế theo di chúc?
Mọi cá nhân đều có quyền nhận di sản nếu thuộc diện nhận di sản theo di chúc. Tại Điều 613 BLDS 2015 quy định người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Nếu không đồng ý nhận di sản, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Đồng thời, việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
BLDS 2015 còn có quy định về những trường hợp được hưởng di sản mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cụ thể tại khoản 1 Điều 644 quy định về những người vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, gồm: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động.
4. Hình thức và nội dung của di chúc
Về hình thức của di chúc: Theo quy định tại Điều 627 BLDS 2015, di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
- Di chúc bằng văn bản: Theo quy định tại Điều 628 BLDS 2015 thì di chúc bằng văn bản gồm bốn dạng như sau:
(1) Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: Trong trường hợp này, người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc và phải tuân thủ theo quy định về nội dung di chúc.
(2) Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Bất kỳ ai cũng đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, ngoại trừ những người sau: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân thủ theo quy định về nội dung di chúc và người làm chứng cho việc lập di chúc
(3) Di chúc bằng văn bản có công chứng: người để lại di chúc thực hiện công chứng di chúc tại Văn phòng Công chứng.
(4) Di chúc bằng văn bản có chứng thực: việc chứng thực di chúc được thực hiện tại Uỷ ban nhân dân cấp xã
- Di chúc miệng: Theo quy định tại Điều 629 BLDS 2015 thì nếu một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Sau 03 tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.
Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Về nội dung của di chúc: Người lập di chúc tự định đoạt nội dung di chúc theo ý chí của mình với điều kiện những nội dung đó không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Tại Điều 631 BLDS 2015 quy định di chúc phải bao gồm các nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm lập di chúc;
- Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
- Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
- Di sản để lại và nơi có di sản;
- Các nội dung khác (nếu có).
Ngoài ra, di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.
Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.
5. Phân chia di sản theo di chúc
Di chúc chỉ phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm người có tài sản chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết. Sau khi người lập di chúc chết, người thừa kế sẽ thực hiện phân chia di sản. Tại Điều 659 BLDS 2015 quy định về việc phân chia di sản theo di chúc như sau:
- Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản
Như vậy, sau khi người để lại di chúc chết, việc phân chia di sản được thực hiện theo nội dung của di chúc. Nếu trong nội dung di chúc không chỉ định rõ phần di sản của từng người thừa kế thì di sản sẽ được chia đều cho tất cả những người thừa kế được nhắc đến trong nội dung của di chúc.
Trên đây là bài viết tư vấn của Công ty Luật TNHH Nhung & Cộng sự về các vấn đề pháp lý liên quan đến thừa kế theo di chúc. Nếu còn bất cứ băn khoăn hay thắc mắc nào khác liên quan đến vấn đề này, hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn về vấn đề của bạn.
Thông tin liên hệ:
Hotline: 0906040745
Fanpage: Công ty Luật TNHH Nhung & Cộng sự
Email: luatsuthachhuynhnhung@gmail.com
Chúng tôi cam kết bảo mật toàn bộ thông tin mà bạn đã cung cấp để đảm bảo tối đa quyền lợi cho khách hàng./.